Soạn bài – Xin lập khoa luật (Trích Tế cấp bát điều – Nguyễn Trường Tộ)

Soạn bài Đọc thêm: Xin lập khoa luật trang 71 – 73 SGK ngữ văn lớp 11 tập 1. Để học tốt hơn danh sách các bài tập trong bài đọc thêm Xin lập khoa luật (Trích Tế cấp bát điều – Nguyễn Trường Tộ), sau đây là hướng dẫn soạn bài đầy đủ, ngắn gọn và chi tiết nhất.

ĐỌC THÊM

XIN LẬP KHOA LUẬT

(Trích Tế cấp bát điều)

NGUYỄN TRƯỜNG TỘ

TIỂU DẪN

Nguyễn Trường Tộ (1830 – 1871) người làng Bùi Chu, xã Hưng Trung, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Ông thông thạo cả Hán học và Tây học nên có tri thức rộng rãi, tầm nhìn xa rộng hơn nhiều trí thức nho sĩ đương thời. Ông đã viết nhiều bản điều trần gửi lên triều đình nhà Nguyễn đề nghị thực thi các biện pháp cụ thể nhằm đổi mới và phát triển đất nước, để có thực lực đối phó với hoạ xâm lăng đến từ phương Tây. Những bản điều trần này không chỉ thể hiện kiến thức sâu sắc, uyên bác, mới mẻ về tình hình Việt Nam và thế giới khi ấy mà còn thấm đượm tinh thần yêu nước của tác giả, được viết bằng một văn phong sáng rõ, chặt chẽ. Hiện nay, giới nghiên cứu đã sưu tầm được gần 60 bản di thảo của Nguyên Trường Tộ. Nhiều đề xuất quan trọng của ông được ghi trong Tế cấp bát điều (Tám việc cần làm gấp). Đáng tiếc là triều đình Tự Đức tuy có tiếp nhận điều trần của Nguyễn Trường Tộ nhưng đã không tích cực thực thi những tư tưởng đổi mới này.

Bài Xin lập khoa luật trích từ ban điều trần số 27: Tế cấp bát điều, bàn về sự cần thiết của luật pháp đối với xã hội nhằm mục đích thuyết phục triều đình cho mở khoa Luật.

VĂN BẢN

Bất luận quan hay dân, mọi người đều phải học luật nước và những luật mới bổ sung thêm từ thời Gia Long đến nay. Ai giỏi luật sẽ được làm quan. Vì luật bao gồm cả kỉ cương, uy quyền, chính lệnh của quốc gia, trong đó tam cương ngũ thường cho đến việc hành chính của sáu bộ đều đầy đủ. Quan dùng luật để trị; dân theo luật mà giữ gìn. Bất cứ một hình phạt nào trong nước đều không vượt ra ngoài luật. Bởi vậy ở các nước phương Tây, phàm những ai đã nhập ngạch Bộ Hình xử đoán các vụ kiện tụng thì chỉ có thăng trật chứ không bao giờ bị biếm truất. Dù vua, triều đình cũng không giáng chức họ được một bậc. Như vậy là để giúp cho các vị này được thong dong trong việc chấp hành luật pháp không bị một bó buộc nào cả. Phàm những tội ngũ hình đều do các vị này xử. Vua cũng không được đoán phạt một người nào theo ý mình mà không có chữ kí của các quan trong bộ ấy. Làm thế là để cho dân chúng thấy rõ đạo công bằng. Vả lại vua không dự vào những việc ngũ hình để tỏ đạo nhân ái. Như chế độ xưa, vua có “tam hào”. Bởi vì nếu có tội phải giết thì đó là quốc dân giết.

Biết rằng đạo làm người không gì lớn bằng trung hiếu, không gì cần thiết bằng lễ nghĩa. Nhưng các sách nho chỉ nói suông trên giấy, không làm cũng chẳng bị ai phạt, có làm cũng chẳng được ai thưởng. Bởi vậy xưa nay học đã nhiều mà mấy ai đổi được tâm tính, sửa được lỗi lầm? Cho nên Không Tử có nói: “Ta chưa hề thấy ai nhận được lỗi mình mà biết tự trách phạt”.

Từ xưa đến nay các vua chúa nắm quyền thống trị cứu nước giúp đời đều nhờ hiểu luật, còn các sách vở khác cũng chỉ là phụ thuộc. Nếu trong nước không có luật, thì dù có vạn quyển sách cũng không thể trị được dân. Điều này quá rõ. Bởi vì sách vở chỉ chép nào là sự tích chính sự thời xưa của cổ nhân, nào là những bài luận hay ho của người xưa để lại, nào những áng văn chương trau chuốt của chư tử, nào những tiểu thuyết dã sử của những người hiếu sự đặt bày. Trong đó hay có, dở có, kẻ nói này, người nói khác, xét kĩ những thứ sách vở đó chỉ làm rối trí thêm chẳng được tích sự gì. Cho nên Không Tử nói: “Ghép những lời nói suông chẳng bằng thân hành ra làm việc”. Thử xem có những nhà nho suốt đời đọc sách, đáng lẽ cử chỉ của họ phải làm khuôn thước cho đời, vậy mà tại sao có nhiều người, cuộc đời của họ và sự ứng xử của họ còn tệ hơn những người quê mùa chất phác?

Nếu bảo luật chỉ tốt cho việc cai trị chứ không có đạo đức tinh vi, thế là không biết rằng trái luật là tội, giữ đúng luật là đức. Nếu tận dụng cái lẽ công bằng ở trong luật mà xử sự thì mọi quyền, pháp đều là đạo đức. Có cái đức nào lớn hơn chí công vô tư không? Chí công vô tư là đức trời. Trong luật cái gì cũng công bằng hợp với đức trời, như vậy mà không đáng gọi là đạo đức tinh vi sao? Chỉ sợ con người không tận dụng luật mà thôi. Nếu tận dụng cũng đủ trọn vẹn đạo làm người rồi, bất tất phải đi tìm cái gì khác.

(Theo TRƯƠNG BÁ CẦN, Nguyễn Trường Tộ, con người và di thảo,

NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 1998)

Hướng dẫn soạn bài – Xin lập khoa luật (Nguyễn Trường Tộ)

I. Tác giả

Nguyễn Trường Tộ (1830 – 1871). Ông là một vị quan liêm khiết thanh cao, đồng thời có tầm nhìn xa trông rộng .

Với bộ não tiên tiến của mình ông thông thạo cả Hán học lẫn Tây Học. Do am hiểu văn hóa phương Tây và có một vốn tri thức phương Đông sâu sắc, Nguyễn Trường Tộ sớm nhận ra cần phải cách tân đất nước. Không những thế trong ông lúc nào cũng nồng nàn lòng yêu đất nước, lo cho nhân dân. Đây quả là một người hiền tài không chỉ có tài mà còn có đức.

Ông luôn có tư tưởng canh tân đất nước. Tác phẩm ông để lại cũng khá nhiều, gồm 60 bản điều trần. Trước cảnh nước ta mất dần vào tay thực dân Pháp, ông càng đau lòng, nên đã dồn tất cả sức lực và trí tuệ của mình vào việc cách tân đất nước bằng những bản điều trần đầy tâm huyết. Tiếc rằng, vua Tự Đức bấy giờ không tiếp nhận. Tuy vậy, tư tưởng đổi mới đất nước của ông vẫn là điều đáng ghi nhận, trân trọng.

II. Tác phẩm

– Thể loại: điều trần là thể loại văn bản của cấp dưới dâng lên vua nhằm trình bày những kế sách giúp trị nước hoặc những việc khẩn cấp cần làm. Đây là một loại văn bản chính trị có lập luận chặt chẽ lời nói vừa thẳng thắn vừa mềm dẻo.

– Xuất xứ: nằm trong bản điều trần số 27 có tên là tế cấp bát điều do Nguyễn Trường Tộ viết vào năm 1867.

– Nội dung: bàn về việc vai trò của luật pháp đối với một đất nước và ra sức thuyết phục nhà nước lập khoa luật.

– Bản điều trần đã nói rõ tư tưởng canh tân của Nguyễn Trường Tộ nhằm đổi mới đất nước. Đặt trong hoàn cảnh lúc bây giờ, khi chế độ phong kiến nước ta còn bảo thủ, trì trệ, thì tư tưởng canh tân của ông càng đáng ghi nhận.

– Bố cục: 3 phần.

  • Đoạn 1: Luật bao gồm những nội dung gì và mối quan hệ của luật đối với quan, dân, với đạo đức và chính lệnh.
  • Đoạn 2: Tác giả phê phán Nho giáo chỉ nói suông trên giấy, không làm cũng chẳng bị ai phạt, có làm cũng chẳng được ai thưởng, học nhiều mà mấy ai đổi được tâm tính, sửa được lỗi lầm
  • Đoạn 3: Vai trò quan trọng của luật đối với con người và xã hội.

III. Hướng dẫn soạn chi tiết bài Xin lập khoa luật (Nguyễn Trường Tộ)

Giải câu 1 (Trang 73 SGK ngữ văn 11 tập 1)

Theo Nguyễn Trường Tộ, luật bao gồm những lĩnh vực nào? Ông đã giới thiệu việc thực hành luật pháp ở các nước phương Tây ra sao?

Trả lời:

Theo Nguyễn Trường Tộ, nội dung của luật bao gồm: kỉ cương, uy quyền, chính lệnh (chính sách và luật pháp) của quốc gia.

Nguyễn Trường Tộ khẳng định: “Bất cứ một hình phạt nào trong nước đều không vượt ra ngoài luật” và ông dẫn chứng giới thiệu: “Ở các nước phương Tây, phàm những ai đã nhập nhập ngạch bộ Hình xử đoán các vụ kiện tụng thì chỉ có thăng trật chứ không bao giờ bị phiếm truất. Dù vua, triều đình cũng không giáng chứng họ được một bậc”. Từ việc dẫn này có thể thấy tác giả đề cao luật, đề cao những người hiểu biết luật và có khả năng dùng luật để điều khiển công việc quốc gia.

Giải câu 2 (Trang 73 SGK ngữ văn 11 tập 1)

Tác giả chủ trương vua, quan và dân phải có thái độ như thế nào trước pháp luật? Vì sao ông lại chủ trương như vậy?

Trả lời:

Theo Nguyễn Trường Tộ, kỉ cương, uy quyền, chính kệnh để duy trì sự tồn tại của đất nước. Vì vậy, tác giả khẳng định: “Bất luận quan hay dân mọi người đều phải học luật nước”. Luật đã giao thì làm sao giữ được kỉ cương phép nước. Từ quan cho đến thứ dân đều phải hiểu và làm theo luật.

Giải câu 3 (Trang 73 SGK ngữ văn 11 tập 1)

Theo Nguyễn Trường Tộ, Nho học truyền thống có tôn trọng luật pháp không?

Trả lời:

Theo tác giả, Nho học không có truyền thống tôn trọng luật pháp. Bởi: “Biết rằng đạo làm người không gì bằng trung hiếu, không gì cần thiết bằng lễ nghĩa. Nhưng các sách Nho chỉ nói suông trên giấy, không làm cũng chẳng bị ai phạt, có làm cũng chẳng được ai thưởng. Bởi vậy xưa nay học đã nhiều mà mấy ai đổi được tâm tính, sửa được lỗi lầm?”. Hơn nữa, “Từ xưa đến nay các vua chúa nắm quyền thống trị cứu nước giúp đời đều nhờ hiểu luật, còn các sách cũng chỉ là phụ thuộc. Nếu trong nước không có luật thì dù có vạn quyển sách cũng không thể trị dân được”.

Giải câu 4 (Trang 73 SGK ngữ văn 11 tập 1)

Tác giả quan niệm như thế nào về mối quan hệ giữa đạo đức và luật pháp?

Trả lời:

Dù lời văn của tác giả tỏ ra đề cao luật pháp, nhưng theo ông, luật pháp và đạo đức gắn bó chặt chẽ với nhau. Theo tác giả, luật còn là đạo đức, đạo làm người “trái luật là có tội, giữ đúng luật là đạo đức” và “có đạo đức nào lớn hơn chí công vô tư” (Quan hệ giữa đạo đức và luật pháp là ở chỗ thống nhất giữa đúng luật và đạo đức. Công bằng, luật pháp là đạo đức. Đạo đức lớn nhất là chí công vô tư. Trái luật cũng đồng nghĩa với trái đạo đức).

Giải câu 5 (Trang 73 SGK ngữ văn 11 tập 1)

Việc nhắc đến Khổng Tử và các khái niệm đạo đức, văn chương có tác dụng gì đối với nghệ thuật biện luận trong đoạn trích?

Trả lời:

Để tăng thêm sức thuyết phục với nhà vua, Nguyễn Trường Tộ đưa ra quan niệm luật của đạo Nho: “Từ tam cương ngũ thường cho đến việc hành chính của sáu bộ đều đầy đủ”. Pháp luật phải gắn liền với hoạt động thực tiễn của con người. Tác giả lấy ngay lời của Khổng Tử “Ta chưa hề thấy ai nhận được lỗi mình mà biết tự trách phạt”. Chép những lời nói suông chẳng bằng thân hành ra làm việc”. Đây chính là biện pháp lập luận “gậy ông đập lưng ông”. Như vậy, theo tác giả:

– Đạo Nho là một thứ luật phong kiến nội dung : không gì lớn bằng trung hiếu, không gì cần thiết bằng lễ nghĩa.

– Nho học không có truyền thống tôn trọng luật pháp vì chỉ nói suông trên giấy, làm tốt chẳng ai khen, làm dở chẳng ai chê. Đến Khổng Tử cũng công nhận điều này.

=> Cách lập luận của tác giả chặt chẽ, dẫn chứng xác thực, có sức thuyết phục cao.

Tham khảo thêm cách soạn khác bài Xin lập khoa luật (Nguyễn Trường Tộ)

Câu 1. Theo Nguyễn Trường Tộ, luật bao gồm những lĩnh vực nào? Ông đã giới thiệu việc thực hành luật pháp ở các nước phương Tây ra sao?

Trả lời:

Luật bao gồm nhiều lĩnh vực khác nhau: Kỉ cương, uy quyền, chính lệnh, tam cương ngũ thường…

Việc thực hành luật pháp ở các nước phương Tây rất công bằng, nghiêm minh:

  • “Phàm những ai đã nhập ngạch bộ Hình xử đán các vụ kiện tụng thì chỉ có thăng trật chứ không bao giờ bị phiếm truất. Dù vua, triều đình cũng không giáng chức họ được một bậc…”
  • Không có ai (kể cả vua chúa) được đứng ngoài, đứng trên luật pháp. Nhà nước xã hội vận hành và phát triển bằng luật pháp. mọi sự thưởng phạt đều dựa trên luật pháp. Đó là những nhà nước pháp quyền.

Từ việc này có thể thấy tác giả rất đề cao luật, đề cao những người hiểu biết về luật và có khả năng dùng luật để điều khiển công việc quốc gia.

Câu 2. Tác giả chủ trương vua, quan và dân phải có thái độ như thế nào trước pháp luật? Vì sao ông lại chủ trương như vậy?

Trả lời:

Theo Nguyễn Trường Tộ, kỉ cương, uy quyền, chính lệnh để duy trì sự tồn tại của đất nước. Vì vậy, tác giả khẳng định: “Bất luận quan hay dân mọi người đểu phải học luật nước”, “quan dùng luật để trị dân, dân theo luật mà giữ gìn”.  Luật có tác dụng cai trị xã hội, duy trì sự tồn tại của đất nước.Quan dùng luật để cai trị nhân dân, dân theo luật mà giữ gìn. Bất cứ hình phạt nào cũng không vượt khỏi luật. Luật phải đề cao tính dân chủ, gắng với đời sống con người.

Ông chủ trương như vậy vì luật đã bao trùm lên tất cả. Nếu đất nước không có các bộ luật thì làm sao giữ được kỉ cương phép nước. Từ quan cho đến thứ dân đều phải hiểu và làm theo luật. Xưa đã đúng, nay càng thấy đúng và thấm thía hơn.

Câu 3. Theo Nguyễn Trường Tộ, Nho học truyền thống có tôn trọng luật pháp không?

Trả lời:

Đạo Nho là một thứ luật phong kiến mà nội dung không gì lớn bằng trung hiếu, không gì cần thiết bằng lễ nghĩa.Theo tác giả Nho học không có truyền thống tôn trọng luật pháp vì chỉ nói suông trên giấy, làm tốt chẳng ai khen, làm dở chẳng ai chê. Mặc khác Nho giáo cho rằng : “từ xưa đến nay các vua chúa năm quyền thống trị cứu nước giúp đời đều nhờ hiểu luật, còn các sách vở khác cũng chỉ là phụ thuộc. Đến Khổng Tử cũng công nhận điều này

Câu 4. Tác giả quan niệm như thế nào về mối quan hệ giữa đạo đức và luật pháp?

Trả lời:

Theo ông, luật pháp và đạo đức gắn bó chặt chẽ với nhau. Luật còn là đạo đức, đạo làm người “trái luật là có tội, giữ đúng luật là đạo đức” và có “có đạo đức nào lớn hơn chí công vô tư”.

Câu 5. Việc nhắc đến Khổng Tử và các khái niệm đạo đức, văn chương có tác dụng gì đối với nghệ thuật biện luận trong đoạn trích?

Trả lời:

Để tăng thêm sức thuyết phục với nhà vua, Nguyễn Trường Tộ đưa ra quan niệm luật của đạo Nho: “Từ tam cương ngũ thường cho đến việc hành chính của sáu bộ đểu đầy đủ”. Tác giả phê phán đạo Nho ở tính chất vô tích sự, chỉ nói suông không có tác dụng, “không làm cũng chẳng ai bị phạt, có làm cũng chẳng được ai thưởng”. Vì vậy, pháp luật phải gắn liền với thực tiễn hành động của con người. Đó là làm theo pháp luật. Tác giả lấy ngay lời của Khổng Tử: “Ta chưa hề thấy ai nhận được lỗi mình mà biết tự trách phạt”, “Chép những lời nói suông chẳng bằng thân hành ra làm việc”.

Đây chính là biện pháp lập luận “gậy ông đập lưng ông”. Tác giả đưa ra dẫn chứng “Thử xem có những nhà nho suốt đời đọc sách đáng lẽ cử chỉ của họ phải làm khuôn thước cho đời, vậy mà tại sao có nhiều người cuộc đời của họ và ứng xử của họ còn tệ hơn những người quê mùa chất phác.”.

Qua đây ông muốn khảng định: Vì sao lại có tình trạng như vậy? Chỉ có thể trả lời là do họ không được học luật. Vì vậy mới cần có luật.

=> Nghệ thuật biện luận: Lập luận chặt chẽ, dẫn chứng xác thực, lời lẽ mềm dẻo, có sức thuyết phục. Bản điều trần thể hiện tư tưởng cấp tiến của Nguyễn Trường Tộ đến nay vẫn còn nguyên giá trị.

(HTTPS://BAIVIET.ORG)

DMCA.com Protection Status