Soạn bài – Ôn tập phần văn học kì II

Soạn bài Ôn tập phần văn học kì II trang 115 – 116 SGK ngữ văn lớp 11 tập 2. Để học tốt hơn danh sách các bài tập trong bài Ôn tập phần văn học kì II, sau đây là hướng dẫn soạn bài đầy đủ, ngắn gọn và chi tiết nhất.

Hướng dẫn soạn bài – Ôn tập phần văn học kì II

I. NỘI DUNG

Sách giáo khoa Ngữ văn 11,tập hai, phần văn học Việt Nam gồm những tác phẩm văn học hiện đại thời kì từ đầu thế kỉ XX đến Cách mạng tháng Tám năm 1945 thuộc về các thể loại thơ ca và nghị luận

Về thơ, chương trình gồm các tác phẩm: Lưu biệt khi xuất dương (Phan Bội Châu), Hầu trời (Tản Đà), Vội vàng (Xuân Diệu), Tràng giang (Huy Cận), Đây thôn Vĩ Dạ (Hàn Mặc Tử), Chiều tối (Hồ Chí Minh), Từ ấy (Tố Hữu); các bài đọc thêm: Lai tân (Hồ Chí Minh), Nhớ đồng (Tố Hữu), Tương tư (Nguyễn Bính), Chiều xuân (Anh Thơ).

Khi ôn tập các tác phẩm này, cần nắm được lí thuyết về thể loại thơ để vận dụng vào việc phân tích các tác phẩm. Cần nắm vững những vấn đề về nội dung và nghệ thuật ; nhận ra được nội dung cảm hứng, hình tượng nhân vật trữ tình, phát hiện ra các chi tiết nghệ thuật đặc sắc của mỗi bài thơ.

Về văn nghị luận, sách giáo khoa có trích tuyển để học các trích đoạn: Về luân lí xã hội ở nước ta (Phan Châu Trinh), Một thời đại trong thi ca (Hoài Thanh); bài đọc thêm : Tiếng mẹ đẻ – nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức (Nguyễn An Ninh).

Khi ôn tập các tác phẩm này, cần hiểu được sự khác nhau giữa văn hình tượng với văn nghị luận. Văn hình tượng là sản phẩm của tư duy nghệ thuật, sáng tạo ra những hình tượng sinh động, đẹp đẽ, trước hết và chủ yếu để chuyển tải tình cảm, cảm xúc thẩm mĩ. Còn văn nghị luận là sản phẩm của tư duy logic, tác động trước hết đến nhận thức lí trí của người đọc. Sức mạnh của văn nghị luận là ở lập luận chặt chẽ, lí lẽ sắc bén, luận cứ xác đáng, đầy thuyết phục.

Tìm hiểu các tác phẩm nghị luận nói trên qua đoạn trích, cần nắm chắc nội dung tư tưởng và đặc sắc nghệ thuật của các văn bản, cách triển khai lập luận và ngôn ngữ biểu đạt của mỗi tác giả.

Phần văn học nước ngoài gồm: bài thơ Tôi yêu em (Pu-skin), truyện ngắn Người trong bao (Sê-khốp), đoạn trích Người cầm quyền khôi phục uy quyền (trích tiểu thuyết Những người khốn khổ – Huy-gô), tác phẩm nghị luận Ba cống hiến vĩ đại của Các Mác (Ăng-ghen); bài đọc thêm: Bài thơ số 28 (Ta-go)

Khi ôn tập các tác phẩm này, ngoài đặc trưng của một tác phẩm nước ngoài học qua bản dịch, cần nắm được những kiến thức cơ bản về tác giả, về nội dung và nghệ thuật của từng tác phẩm.

II. PHƯƠNG PHÁP

Học sinh có thể vận dụng những hình thức ôn tập sau:

– Lập đề cương

– Làm bài tập ở lớp

– Thuyết trình

– Thảo luận ở lớp (có thể theo từng nhóm)

– Viết báo

Có thể lập đề cương ôn tập theo hệ thống các vấn đề và câu hỏi sau:

Giải câu 1 (Trang 116 SGK ngữ văn 11 tập 2)

Thơ mới khác với thơ trung đại như thế nào?

Trả lời:

Các bình diện Thơ trung đại Thơ mới
Nội dung cảm hứng Thể hiện “cái ta”, đề cao tính cộng đồng, xã hội. Đề cao “cái tôi” một cách tuyệt đối.
Cảm hứng chủ đạo Nói chí, tỏ lòng, bày tỏ lòng yêu nước… Nỗi buồn, cô đơn, thất vọng của cái tôi cá nhân trước thực tại và tương lai của người trí thức trong hoàn cảnh đất nước mất độc lập, tự do.
Hình thức nghệ thuật Viết bằng chữ Hán, chữ nôm
Sử dụng thể thơ truyền thống: Đường luật, song thất lục bát…Luật lệ chặt chẽ, gò bó, diễn đạt ước lệ, sử dụng nhiều điển tích, điển cốTính quy phạm nghiêm ngặt.
Viết bằng chữ Quốc ngữ.

Thể thơ kết hợp truyền thống và hiện đại: thơ tám chữ, thơ bốn chữ, thơ tự do…

Luật lệ đơn giản, phóng khoáng.

Phá vỡ tính quy phạm.

Giải câu 2 (Trang 116 SGK ngữ văn 11 tập 2)

Những nội dung cơ bản và đặc điểm nghệ thuật chủ yếu của các bài thơ Lưu biệt khi xuất dương của Phan Bội Châu, Hầu trời của Tản Đà? Làm rõ tính chất giao thời (giữa văn học trung đại và hiện đại) về nghệ thuật của các tác phẩm nói trên.

Trả lời:

Tác phẩm Nội dung cơ bản Cảm hứng chủ đạo
Lưu biệt khi xuất dương (Phan Bội Châu) Lí tưởng của trang nam nhi chủ động xoay chuyển trời đất. Không phụ thuộc vào hoàn cảnh cuộc sống. Cái tôi hào hoa, phóng túng, khẳng định tài năng văn chương.

Khao khát được thể hiện mình giữa cuộc đời.

Hầu trời (Tản Đà) Xây dựng hình tượng kì vĩ, hào hùng. Thể thơ thất ngôn trường thiên tự do, giọng điệu tự nhiên, ngôn ngữ chọn lọc, cảm xúc bộc lộ tự nhiên, phóng khoáng.

* Tính chất giao thời về nghệ thuật của hai tác phẩm Lưu biệt khi xuất dương của Phan Bội Châu và Hầu trời của Tản Đà:

* Lưu biệt khi xuất dương:

– Dấu ấn cũ:

+ Thể thơ: thất ngôn bát cú Đường luật.

+ Viết bằng chữ Hán.

– Nét mới: Phê phán lối học khoa cử của Nho Giáo mạnh mẽ, tư tưởng đổi mới của nhà Nho phong kiến.

* Hầu trời:

– Dấu ấn cũ: Thể thơ thất ngôn trường thiên tự do nhưng vẫn mang dấu ấn của thơ truyền thống, cách dùng từ, diễn đạt, xây dựng hình ảnh vẫn mang dấu ấn văn học trung đại.

Nét mới:

+ Chữ Quốc ngữ, cảm xúc bộc lộ tự nhiên, phóng khoáng.

+ Cái tôi buồn chán, thoát li.

Giải câu 3 (Trang 116 SGK ngữ văn 11 tập 2)

Qua việc phân tích, so sánh các bài thơ Lưu biệt khi xuất dương của Phan Bội Châu, Hầu Trời của Tản Đà, Vội vàng của Xuân Diệu, hãy làm rõ quá trình hiện đại hóa thơ ca thời kì từ đầu thế kỉ XX đến Cách mạng tháng Tám năm 1945.

Trả lời:

Quá trình hiện đại hóa thơ ca thời kì đầu thế kỉ XIX đến Cách mạng tháng Tám năm 1945 qua các bài Lưu biệt khi xuất dương của Phan Bội Châu, Hầu trời của Tản Đà, Vội vàng của Xuân Diệu:

* Giai đoạn thứ nhất từ đầu thế kỉ XX – 1920: Thi pháp trung đại, tư tưởng đổi mới.

– Được thể hiện qua bài Lưu biệt khi xuất dương của Phan Bội Châu: quan điểm mới về “chí làm trai” nhưng vẫn mang dấu ấn của văn học truyền thống (viết bằng chữ Hán, thể thơ thất ngôn bát cú đường luật).

* Giai đoạn thứ hai: từ năm 1920 – 1930:

– Thi pháp trung đại có nhiều yếu tố đổi mới, ngôn ngữ hiện đại, nhưng những yếu tố của thi pháp văn học trung đại vẫn còn tồn tại khá phổ biến.

– Hầu trời của Tản Đà được thể hiện rất rõ các tính chất nói trên. Bài thơ với ngôn ngữ hiện đại, “cái tôi” ngông của nhà Nho tài tử, chán đời.

→ Bài thơ có thể xem như là gạch nối giữa hai thời đại văn học dân tộc.

* Giai đoạn thứ ba: từ năm 1930 – 1945:

– Nền văn học nước nhà hoàn tất quá trình hiện đại hóa với nhiều cuộc cách tân sâu sắc trên mọi phương diện.

– Bài thơ Vội vàng:

+ Sử dụng thi pháp, ngôn ngữ hiện đại.

+ Thể hiện tiếng nói của cái tôi ham sống, khao khát với đời, quan niệm mới mẻ về lẽ sống.

+ “Cái tôi” cá nhân, buồn bơ vơ trước cuộc đời.

Giải câu 4 (Trang 116 SGK ngữ văn 11 tập 2)

Nội dung tư tưởng và đặc sắc nghệ thuật của các bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu, Tràng giang của Huy Cận, Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử, Tương tư của Nguyễn Bính, Chiều xuân của Anh Thơ?

Trả lời:

Tác phẩm Nội dung cơ bản Đặc sắc nghệ thuật
Vội vàng (Xuân Diệu) Bài thơ là lời giục giã mãnh liệt, sống hết mình, hãy quý trọng từng giây, từng phút của của cuộc đời mình, nhất là những năm tháng tuổi trẻ của một hồn thơ yêu đời, ham sống đến cuồng nhiệt. Sự kết hợp nhuần nhị giữa mạch xúc và mạch luân lí, giọng điệu say mê, sôi nổi, những sáng tạo độc đáo về ngôn từ và hình ảnh thơ.
Tràng giang (Huy Cận) Bài thơ bộc lộ nỗi sầu của một cái tôi cô đơn trước thiên nhiên rộng lớn, trong đó thấm đượm tình người, tình đời, lòng yêu nước thầm kín thiết tha. Sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố cổ điển và hiện đại. Thể thơ thất ngôn với ngôn ngữ giản dị, trong sáng.
Đây thôn Vĩ Dạ (Hàn Mặc Tử) Bài thơ vẽ nên một bức tranh đẹp về một miền quê, đất nước, là tiếng lòng của một con người tha thiết yêu đời, yêu người. Hình ảnh biểu hiện nội tâm kết hợp với bút pháp gợi tả, ngôn ngữ giàu hình ảnh, liên tưởng.
Tương tư (Nguyễn Bính) Bài thơ thể hiện nỗi nhớ thương da diết về một tình yêu đơn phương của chàng trai. Lối ví von, so sánh mộc mạc, duyên dáng, mang phong vị dân gian.
Chiều xuân (Anh Thơ) Bài thơ là một bức tranh mùa xuân yên ả, thanh bình cùng nhịp sống khoan thai nơi đồng quê của tác giả – tiêu biểu cho cảnh xuân nơi đồng quê của miền Bắc nước ta. Bài thơ với bút pháp tả cảnh, kết hợp với việc sử dụng từ láy.

Giải câu 5 (Trang 116 SGK ngữ văn 11 tập 2)

Tư tưởng và đặc sắc nghệ thuật của các bài thơ Chiều tối, Lai Tân của Hồ Chí Minh; Từ ấy, Nhớ đồng của Tố Hữu?

Trả lời:

Tác phẩm Nội dung tư tưởng Đặc sắc nghệ thuật
Chiều tối (Hồ Chí Minh) Bài thơ cho thấy tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống, ý chí vượt lên hoàn cảnh khắc nghiệt của nhà thơ – chiến sĩ Hồ Chí Minh. Bài thơ đậm sắc thái nghệ thuật cổ điển mà hiện đại. Ngôn ngữ linh hoạt và sáng tạo.
Lai tân (Hồ Chí Minh) Bài thơ cho thấy hiện trạng đen tối, thối nát của xã hội Trung Quốc thời bấy giờ. Cấu tứ đầy bất ngờ, sáng tạo.
Từ ấy (Tố Hữu) Bài thơ là lời tâm nguyện của người thanh niên yêu nước giác ngộ lí tưởng cách mạng. Sự vận động tâm trạng của nhà thơ được thể hiện qua việc sử dụng hình ảnh thơ tươi sáng kết hợp với các biện pháp tu từ và ngôn ngữ giàu nhạc điệu
Nhớ đồng (Tố Hữu) Bài thơ là niềm yêu quý thiết tha và nỗi nhớ da diết của nhà thơ đối với quê hương cùng niềm khát khao tự do, giác ngộ lí tưởng cách mạng. Bài thơ dùng nhiều hình ảnh ẩn dụ, nhiều biện pháp điệp, ngôn từ trong sáng, thiết tha, lôi cuốn.

Giải câu 6 (Trang 116 SGK ngữ văn 11 tập 2)

Cái đẹp, cái hay, sức hấp dẫn của bài thơ Tôi yêu em (Pu-skin)?

Trả lời:

Cái hay, cái đẹp, sức hấp dẫn của bài thơ Tôi yêu em của Pu- skin:

* Nội dung:

– Tôi yêu em là một trong những bài thơ tình nổi tiếng của Pu – skin. Bài thơ cũng chính là vẻ đẹp tâm hồn của Pu – skin.

– Bài thơ thể hiện những tình cảm chân thành, cao thượng, nhân ái của tình yêu chứa đựng trong những lời lẽ giản dị, trong sáng nhất. Mặc dù bài thơ thấm đượm nỗi buồn của một mối tình vô vọng nhưng là nỗi buồn trong sáng của một tâm hồn yêu đương chân thành, mãnh liệt, nhân hậu, vị tha.

* Nghệ thuật: cách sử dụng từ ngữ điêu luyện, ngôn từ giản dị. trong sáng. Bài thơ giàu cảm xúc nhưng lại thể hiện một cách đầy lắng đọng, suy tư. Điệp khúc Tôi yêu em là cảm xúc chủ đạo của bài thơ kết hợp với cách ngắt nhịp linh hoạt, sáng tạo.

Giải câu 7 (Trang 116 SGK ngữ văn 11 tập 2)

Phân tích hình tượng nhân vật Bê-li-cốp trong truyện ngắn Người trong bao (Sê-khốp).

Trả lời:

Hình tượng nhân vật Bê – li – cốp trong truyện ngắn Người trong bao của Sê – khốp:

* Chân dung:

– Bộ mặt: giấu trong cổ áo bành tô bẻ cao, mắt đeo kính râm.

– Trang phục: luôn mặc áo màu đen, đi giầy cao su, mặc áo bông chần, đeo kính râm.

– Đồ dùng: cái ô, đồng hồ quả quýt, chiếc dao nhỏ để gọt bút chì… đều được để trong bao.

=> Chân dung kì quái, lập dị, được che chắn, bao bọc trong hình thức một cái bao, không dám đối mặt với thực tế, “trốn tránh cuộc sống thực”.

* Tính cách Bê – li – cốp:

– Nhút nhát, ngại giao tiếp “thu mình vào trong vỏ, tạo cho mình một thứ bao có thể ngăn mình khỏi những ảnh hưởng từ bên ngoài”.

– Ý nghĩ cũng giấu vào trong bao, không bao giờ dám có ý kiến về một vấn đề nào.

– Trốn tránh hiện tại, ca ngợi quá khứ – ngợi ca tiếng Hi Lạp cổ.

– Bảo thủ, giáo điều, sùng bái cấp trên và những chỉ thị thông tư một cách máy móc, rập khuôn.

– Luôn cô độc, lo lắng sợ hãi.

+ Ở nhà luôn đóng cửa, cài then, buồng ngủ chật như một cái hộp, khi ngủ kéo chăn trùm đầu kín mít.

+ Câu nói cửa miệng: “nhỡ lại xảy ra chuyện gì”.

→ Là một người cô độc, lạc lõng, sợ hãi, thích sống dập khuôn như một cái máy vô hồn và luôn thỏa mãn, hài lòng với cuộc sống của mình.

– Lối sống của Bê – li – cốp dã ảnh hưởng đến tinh thần và hoạt động của mọi người: mọi người đều sợ hắn, cả thầy hiệu trưởng cũng sợ…, cả thành phố sợ hắn.

=> Bê – li – cốp đại diện cho những chỉ thị, thông tư, điển hình cho một kiếp người, một hiện tượng xã hội đã và đang tồn tại trong cuộc sống của một bộ phận tri thức Nga cuối thế kỉ XIX.

Giải câu 8 (Trang 116 SGK ngữ văn 11 tập 2)

Phân tích hình tượng nhân vật Giăng Van-giăng trong đoạn trích Người cầm quyền khôi phục uy quyền (Huy-gô).

Trả lời:

Hình tượng nhân vật Giăng Van- giăng trong đoạn trích Người cầm quyền khôi phục uy quyền của Huy – gô:

* Tính cách của Giăng Van – giăng qua đoạn trích:

– Muốn cứu người bị bắt oan, Giăng Van – giăng tự thú.

– Sẵn sàng bị bắt.

– Cố gắng kéo dài thời gian để tìm con cho Phăng – tin

* Giăng Van – giăng con người đối lập với cái ác:

– Giọng nói:

+ Với Gia – ve: tế nhị, nhẹ nhàng nhưng đầy uy quyền.

+ Với Phăng – tin: nhã nhặn, điềm tĩnh, quan tâm.

– Hành động:

+ Đối với Gia – ve: biết rõ mục đích của Gia – ve → cúi đầu cầu xin → tức giận, cầm lấy thanh sắt trừng trừng nhìn Gia – ve.

+ Đối với Phăng – tin: quan tâm, ân cần, lo lắng.

=> Mục đích: Giăng Van – giăng cố gắng giữ bí mật chuyện chưa tìm được Cô – dét cho Phăng – tin, lo lắng Phăng – tin bị sốc nếu biết tin.

* Giăng Van – giăng qua sự miêu tả gián tiếp:

– Lời cầu cứu của Phăng – tin.

– Cảnh bà xơ Xem – pli – xơ chứng kiến cái chết của Phăng – tin: “lúc Giăng Van – giăng thì thầm bên tai Phăng – tin bà trông thất rõ ràng một nụ cười không sao tả được hiện trên đôi môi nhợt nhạt và đôi mắt xa xăm, đầy ngỡ ngàng của chị khi đi vào cõi chết”.

=> Giăng Van – giăng có sức mạnh của một đấng cứu thế, cứu rỗi những con người khốn khổ.

Tham khảo thêm cách soạn khác bài Ôn tập phần văn học kì II

Câu 1. Thơ mới khác với thơ trung đại như thế nào?

Trả lời:

Thơ mới khác với thơ truyền thống (thơ trung đại) không chỉ ở “phần xác” của thơ (hình thức) mà chủ yếu là ở “phần hồn” của nó, hay nói như Hoài Thanh là ở “tinh thần của thơ mới” (Một thời đại trong thi ca). Đó là “cái tôi” cá nhân với cách nhìn con người, cuộc đời, thiên nhiên bằng đôi mắt “xanh non”, bằng cặp mắt “biếc rờn” (Xuân Diệu). Đó là cách nhìn đời bằng đôi mắt trẻ trung, tươi mới, ngơ ngác trước thiên nhiên và cuộc sống, đồng thời thấm đượm một nỗi buồn cô đơn, bơ vơ giữa cuộc đời, trước không gian mênh mông và thời gian vô tận. Thơ mới khác thơ trung đại không chỉ ở phương diện nghệ thuật (phá bỏ những lối diễn đạt ước lệ, những quy tắc cứng nhắc, những công thức gò bó,…) mà chủ yếu là ở phương diện nội dung (cách nhìn, cảm xúc mới mẻ đối với con người và thế giới). Lời thơ trong thơ mới được tổ chức gần với chuỗi lời nói của cá nhân khác với lời thơ trong thơ trung đại, do bị tính quy phạm chi phối, nên thường nặng tính ước lệ, công thức, cách điệu,…

Câu 2. Những nội dung cơ bản và đặc điểm nghệ thuật chủ yếu của các bài thơ Lưu biệt khi xuất dương của Phan Bội Châu, Hầu trời của Tản Đà? Làm rõ tính chất giao thời (giữa văn học trung đại và hiện đại) về nghệ thuật của các tác phẩm nói trên.

Trả lời:

a) Nội dung cơ bản và đặc điểm nghệ thuật chủ yếu của các bài Xuất dương lưu biệt của Phan Bội Châu, Hầu Trời của Tản Đà

– Lưu biệt khi xuất dương: về nội dung, bài thơ khắc hoạ vẻ đẹp lãng mạn hào hùng, bầu nhiệt huyết sôi trào và khát vọng cháy bỏng của người chiến sĩ cách mạng Phan Bội Châu trong buổi ra đi tìm đường cứu nước, vể nghệ thuật, bài thơ nổi bật ở giọng điệu thơ vừa da diết vừa mạnh mẽ, quyết liệt, sục sôi từ đó mà có sức truyền cảm và lôi cuốn người đọc.

– Hầu Trời: Bài thơ này ra đời vào đầu những năm 20 của thế kỉ XX. Vào thời điểm đó, lãng mạn đã là điệu tâm tình chủ yếu của thời đại. Xã hội thuộc địa phong kiến tù hãm, u uất, đầy rẫy những cảnh ngang trái, xót đau. Người trí thức có lương tri không thể không chấp nhận nhập cuộc, nhưng chống lại nó thì không phải ai cũng đủ dũng khí để làm. Bất bình nhưng bất lực, người ta chỉ có thể mong ước thoát li, làm thơ để giải sầu. Thơ Tản Đà thời này “đã nói lên đúng cái sầu bàng bạc trong đất nước, tiềm tàng trong tim gan người ta” (Xuân Diệu). Nhưng Tản Đà khác người ở chỗ, ngay từ đầu những năm 20 đã dám mạnh dạn thể hiện bản ngã “cái tôi” của mình với “cái buồn mơ màng, cái cảm xúc chơi vơi” (Xuân Diệu), với khát vọng thiết tha đi tìm một cõi tri âm để có thể khẳng định tài năng, phẩm giá đích thực của mình, bởi chẳng thể nào trông đợi ở “cõi trần nhem nhuốc bao nhiêu sự này”. Cái ngông của Tản Đà cũng là ở đó.

Bài thơ Hầu Trời đã thể hiện được nổi bật hồn thơ cũng như tính cách của Tản Đà – một thi sĩ ung dung tự tại, luôn thích tự do, phóng túng; một con người ý thức được tài năng và giá trị đích thực của mình đồng thời cũng luôn khao khát được khẳng định, được cống hiến, được làm đẹp cho đời.

b) Hai bài thơ dù đều có những nét mới, nhất là ở nội dung cảm xúc nhưng về thể thơ và về thi pháp thì cơ bản vẫn thuộc phạm trù văn học trung đại. Bài Xuất dương lưu biệt của Phan Bội Châu thể hiện cái “chí làm trai” theo tư tưởng mới khác với “chí làm trai” thời trung đại, song bài thơ vẫn là một bài thất ngôn bát cú Đường luật khá đăng đối, giàu hình ảnh ước lệ, không khác gì một bài thơ cổ. Trong khi đó, Hầu Trời có nhiều cách tân hơn (thể thơ thất ngôn trường thiên khá tự do) nhưng thực ra thì đó vẫn là thể thơ theo lối cổ, cách diễn đạt, dùng từ, xây dựng hình ảnh cũng vẫn mang những dấu ấn văn học trung đại. Tính chất giao thời về nghệ thuật của các tác phẩm nói trên là ở đó.

Câu 3. Qua việc phân tích, so sánh các bài thơ Lưu biệt khi xuất dương của Phan Bội Châu, Hầu Trời của Tản Đà, Vội vàng của Xuân Diệu, hãy làm rõ quá trình hiện đại hóa thơ ca thời kì từ đầu thế kỉ XX đến Cách mạng tháng Tám năm 1945.

Trả lời:

Quá trình hiện đại hoá của thơ ca thời kì từ đầu thế kỉ XX đến Cách mạng tháng Tám năm 1945 được thể hiện khá rõ qua các bài thơ như Xuất dương lưu biệt của Phan Bội Châu, Hầu Trời của Tản Đà, Vội vàng của Xuân Diệu.

– Giai đoạn thứ nhất (từ đầu thế kỉ XX đến khoảng năm 1920), thành tựu chủ yếu của văn học là thơ của các chí sĩ cách mạng, tiêu biểu là Phan Bội Châu. Trong sáng tác của Phan Bội Châu cũng như của nhiều cây bút Hán học yêu nước và cách mạng khác, nội dung tư tưởng đã khác với thơ ca thế kỉ XIX, nhưng về nghệ thuật vẫn thuộc phạm trù văn học trung đại, các tác giả vẫn viết theo thi pháp của thơ trung đại. Điều đó thể hiện rất rõ trong bài thơ Xuất dương lưu biệt của Phan Bội Châu. Trong bài này, Phan Bội Châu đã thể hiện lẽ sống mới, quan niệm mới về “chí làm trai” nhưng bài thơ vẫn được viết bằng thi pháp và ngôn ngữ của văn học trung đại.

– Giai đoạn thứ hai (khoảng từ 1920 đến 1930), công cuộc hiện đại hoá văn học đã đạt được những thành tựu đáng ghi nhận. Văn học giai đoạn này đã đổi mới, có tính hiện đại, nhưng những yếu tố của thi pháp văn học trung đại vẫn tồn tại khá phổ biến, nhất là trong sáng tác thơ.

Bài Hầu Trời của Tản Đà thể hiện rất rõ tính chất nói trên. Trong Hầu Trời, đã thấy xuất hiện “cái tôi” cá nhân phóng túng, tự ý thức về tài năng, giá trị đích thực cùa mình và khao khát được khẳng định mình. Qua Hầu Trời, Tản Đà cũng bộc lộ rõ một quan điểm khá hiện đại về nghề văn. Cách chia khổ thơ như Tán Đà đã làm trong bài này chưa từng thấy trong thời kì trung đại. Nhưng “cái tôi” cá nhân phóng túng của Tản Đà vẫn phảng phất tinh thần cái ngông của nhà nho tài tử của thơ ca cuối thời trung đại kiểu Nguyễn Công Trứ, Tú Xương,… Vì vậy, Hầu Trời chưa thể xem là thực sự hiện đại. Tản Đà, qua Hầu Trời và những bài thơ khác của ông, “có thể xem như cái gạch nối giữa hai thời đại văn học của dân tộc”.

– Giai đoạn thứ ba (từ khoảng 1930 đến 1945), nền văn học nước nhà đã hoàn tất quá trình hiện đại hoá với nhiều cuộc cách tân sâu sắc trên mọi thể loại. Phong trào Thơ mới (được khởi lên từ năm 1932) được xem là “một cuộc cách mạng thơ ca” (Hoài Thanh). Bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu, Tràng giang của Huy Cận, Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử, Tương tư của Nguyễn Bính,… là những bài thơ tiêu biểu, thể hiện rõ những đặc trưng của thơ mới. Đó là tiếng nói nghệ thuật của “cái tôi” cá nhân tự giải phóng hoàn toàn ra khỏi hệ thống ước lệ của thơ ca thời kì trung đại, trực tiếp quan sát thế giới và lòng mình bằng con mắt của cá nhân, đồng thời cảm thấy bơ vơ, cô đơn trước vũ trụ và cuộc đời.

Câu 4. Nội dung tư tưởng và đặc sắc nghệ thuật của các bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu, Tràng giang của Huy Cận, Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử, Tương tư của Nguyễn Bính, Chiều xuân của Anh Thơ?

Trả lời:

Nội dung tư tưởng và đặc sắc nghệ thuật của các bài thơ:

a) Vội vàng của Xuân Diệu

– Vội vàng, đúng như cái tiêu đề của nó, là lời giục giã hãy sống hết mình, hãy yêu say từng phút giây của tuổi trẻ, hãy thưởng thức bằng tất cả khát khao những ngon ngọt của cuộc đời.

– Vội vàng là một bài thơ rất Xuân Diệu. Xuân Diệu ở trái tim sôi sục, ở cặp mắt xanh non háo hức, ở sự khẳng định “cái tôi” trong quan hệ gắn bó với đời, ở nhịp thơ hăm hở, cuống quýt, ở hình ảnh rất táo bạo đầy rẫy cảm giác và có tính sắc dục, ở cú pháp “rất Tây” và lối qua hàng hết sức thoải mái.

b) Tràng giang của Huy Cận

– Tràng giang thấm đẫm một nỗi buồn. Mỗi khổ thơ thực chất là một sự triển khai khác nhau của nỗi buồn đó và thường được gợi lên bằng cách đối lập giữa cái mênh mông cao rộng như vô hạn với cái nhỏ bé, mong manh, ơ bài thơ này, có lẽ Huy Cận không miêu tả cảnh vật theo một trật tự nhất định. Dường như tác giả không có ý định khắc hoạ một bức tranh đầy đủ, hài hoà qua các khổ thơ, mà tất cả chỉ nhằm tô đậm ở người đọc ấn tượng về nỗi buồn đìu hiu, xa vắng trải dài vô tận theo không gian và thời gian.

– Tràng giang có nhiều nét đặc sắc về nghệ thuật.

+ Thể thơ thất ngôn trang nghiêm, cổ kính với cách ngắt nhịp quen thuộc (4/3) tạo nên sự cân đối, hài hoà. Thủ pháp tương phản được sử dụng triệt để: hữu hạn / vô hạn; nhỏ bé / lớn lao; không / có,…

+ Sử dụng thành công các loại từ láy: láy âm (tràng giang, đìu hiu, chót vót, lơ thơ,…), láy hoàn toàn (điệp điệp, song song, lớp lớp,…). Các biện pháp tu từ: nhân hoá, ẩn dụ, so sánh,…

c) Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử

– Nội dung bài thơ thể hiện nỗi buồn, niềm khao khát của một con người tha thiết yêu đời, yêu cuộc sống, yêu thiên nhiên, yêu con người. Bài thơ đẹp như thế, trên thực tế lại được sáng tác khi nhà thơ ở trong một hoàn cảnh thật tối tăm, tuyệt vọng (bệnh tật giày vò, nồi ám ảnh về cái chết, về sự xa lánh của người đời). Điều đó khiến ta thêm thương xót và cảm thông với số phận của tác giả, thêm cảm phục một con người đầy tài năng và nghị lực, con người đã dũng cảm vượt lên trên hoàn cảnh nghiệt ngã để sáng tác ra những vần thơ tài hoa về tình đời, tình người.

Có thể nói, Đây thôn Vĩ Dạ trước hết là một bài thơ về tình yêu – tình yêu của Hàn Mặc Tử với Hoàng Thị Kim Cúc. Xuyên qua sương khói hư ảo của tình yêu mơ mộng là tình quê, là tình yêu thiết tha đằm thắm với đất nước, quê hương. Với việc khơi gợi lên tình cảm yêu thương chung của nhiều người như thế, bài thơ diễn tả tâm trạng riêng của tác giả lại tạo được sự cộng hưởng rộng rãi và lâu bền trong tâm hồn của bao thế hệ người đọc.

– Ở bài thơ này, tứ thơ bắt đầu với cảnh đẹp thôn Vĩ bên dòng sông Hương, từ đó khơi gợi liên tưởng thực ảo và mở ra bao nhiêu nỗi niềm cảm xúc, suy tư về cảnh và người xứ Huế với phấp phỏng những mặc cảm, uẩn khúc, niềm hi vọng, niềm tin yêu.

Bút pháp của nhà thơ sử dụng trong bài thơ này kết hợp hài hoà điệu tả thực, tượng trưng, lãng mạn và trữ tình. Cảnh đẹp xứ Huế đậm nét tả thực mà lại có tầm cao tượng trưng. Sự mơ mộng làm tăng thêm sắc thái lãng mạn. Nét chân thực của cảm xúc làm đậm thêm chất trữ tình.

d) Tương tư của Nguyễn Bính

Bài thơ thể hiện nỗi nhớ thương đơn phương da diết của một tình nhân. Từ đó, bài thơ gợi sự đáng yêu, đáng quý của tình yêu, đồng thời cũng ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn con người.

Thơ Nguyễn Bính có một điệu riêng. Bài thơ này cũng vậy. Bằng lối ví von mộc mạc mà duyên dáng mang phong vị dân gian, thơ Nguyên Bính đa đem đến cho người đọc những hình ảnh thân thương cùa quê hương đất nước và một tình người đằm thắm, thiết tha.

e) Chiều xuân của Anh Thơ

Bài thơ là một bức tranh mùa xuân vào buổi chiều – tiêu biểu cho cảnh xuân nơi đồng quê miền Bắc nước ta. Bài thơ mạnh ở lối tả. Không tả tỉ mỉ chi tiết mà quan sát rộng, măc dù thê vẫn muốn thâu tóm từ linh hồn của cảnh. Có thể nhận xét chung rằng bức tranh buổi chiều xuân khá yên ả. Thậm chí có phần hơi vắng lặng nữa.

Bài thơ tả cảnh nhưng lại gợi ra rất rõ cái không khí và nhịp sống muôn đời, ở nông thôn ta thời trước, đó là sự bình yên. Con đò nằm biếng lười, quán vắng, những cánh bướm rập rờn, những đàn trâu thong thả,… tất cả đều có dáng khoan thai. Trong bài thơ, thi sĩ đã sử dụng rất nhiều từ láy để dựng cảnh, hay nói đúng hơn là để gợi cái trạng thái tinh thần của cảnh: mưa thì êm êm, quán tranh đứng im lìm, hoa xoan rụng tơi bời, đàn sáo mô vu vơ, mấy cánh bướm rập rờn, những trâu bò thong thả,… Trong các từ láy đã nêu, trừ từ tơi bời, các từ láy còn lại đều là những từ láy có tính chất giảm nhẹ: êm êm, vu vơ, rập rờn, thong thả,… và hoặc thì diễn tả trạng thái thụ động hoặc thì diễn tả trạng thái thụ động thì diễn tả trạng thái đều đều của chủ thể. Rõ ràng trong tổng thể bài thơ, chính sự kết hợp của những từ láy này đã giúp thể hiện nổi bật vẻ đẹp dịu dàng, yên ả, thanh bình của cảnh chiều xuân cũng như nhịp sống khoan thai nơi đồng quê của tác giả.

Câu 5. Tư tưởng và đặc sắc nghệ thuật của các bài thơ Chiều tối, Lai Tân của Hồ Chí Minh; Từ ấy, Nhớ đồng của Tố Hữu?

Trả lời:

a) Chiều tối của Hồ Chí Minh

Bài thơ rất tiêu biểu cho thơ trữ tình Hồ Chí Minh: nhà thơ không trực tiếp bộc lộ cảm nghĩ nội tâm mà biểu hiện qua cách cảm nhận hình ảnh, cảnh vật khách quan. Qua bức tranh cảnh vật, ta thấy được những nét đẹp tâm hồn của một nhà thơ – chiến sĩ: lòng yêu thiên nhiên, con người, yêu cuộc sống, phong thái ung dung tự chủ và niềm lạc quan, nghị lực kiên cường vượt lên trên hoàn cảnh khắc nghiệt, tối tăm.

– Nghệ thuật tả cảnh trong bài thơ vừa có những nét cổ điển (bút pháp chấm phá, ước lệ với những thi liệu cũ) vừa có nét hiện đại (bút pháp tả thực sinh động với những hình ảnh dân dã, đời thường). Bài thơ chủ yếu là gợi tả chứ không phải là miêu tả, vì thế mà có thể cảm nhận tính chất hàm súc của thơ rất cao.

– Ngôn ngữ trong bài thơ được sử dụng rất linh hoạt và sáng tạo. Một số từ ngữ vừa gợi tả lại vừa gợi cảm (quyện điểu, cô vân). Biện pháp láy âm vắt dòng ở câu 3 và câu 4 tạo nhịp thơ khoẻ khoắn. Ngoài ra bài thơ có những chữ rất quan trọng, có thể làm “sáng” lên cả bài thơ, ví như chữ “hồng” trong câu thơ cuối chẳng hạn.

b) Lai Tân của Hồ Chí Minh

– Bài thơ cho thấy hiện trạng đen tối, thối nát của một xã hội tưởng là yên ấm, tốt lành.

– Bài thơ có một cách cấu tứ bất ngờ. Ba câu thơ đầu chỉ thuần kể việc. Điểm nút chính là câu thơ thứ tư. Nó làm bật ra toàn bộ tư tưởng của bài. Nó làm bung vỡ tất cả cái ý châm biếm mỉa mai hướng đến sự thối nát đến tận xương tuỷ của cái xã hội Tưởng Giới Thạch.

Bài thơ cũng in đậm cái bút pháp chấm phá của thơ Đường. Lời thư ngắn gọn, súc tích. Không cầu kì câu chữ, nhưng có thể nói: chỉ với bốn câu thơ ngắn, nhà thơ đã vẽ nên cái bản chất của cả một chế độ xã hội mục nát đến vô cùng. Sức chiến đấu, chất “thép” của bài thơ nhẹ nhàng mà quyết liệt chính là ở đó.

c) Từ ấy của Tố Hữu

Bài thơ là niềm vui sướng, say mê mãnh liệt của Tố Hữu trong buổi đầu gặp gỡ lí tưởng cách mạng. Sự vận động của tâm trạng nhà thơ được thể hiện sinh động bàng’ những hình ảnh tươi sáng, bằng các biện pháp tu từ gợi cảm (nhất là biện pháp tu từ ẩn dụ) và ngôn ngữ giàu nhạc điệu.

Nhạc điệu của bài thơ trước hết được tạo ra từ thể thơ thất ngôn – vốn mang âm điệu trang trọng. Cách ngắt nhịp trong bài thơ liên tục thay đổi qua các câu thơ, ví dụ: Từ ấy trong tôi/bừng nắng hạ… Hồn tôi/là một vườn hoa lá… Gần gũi nhau/thêm mạnh khối đời… Hệ thống vần cuối của các câu thơ cũng rất phong phú, có sức vang ngân, bởi nó chủ yếu là các âm mở, như: hạ – lá; người – nơi – đời ; nhà – pha,…

d) Nhớ đồng của Tố Hữu

– Bài thơ là niềm yêu quý thiết tha và nỗi nhớ da diết của nhà thơ đối với quê huơng, đồng thời thể hiện niềm say mê lí tưởng và khát khao tự do, khát khao hành động của nhà thơ.

– Bài thơ dùng nhiều hình ảnh ẩn dụ, nhiều biện pháp điệp (điệp từ, điệp cú pháp), điệu thơ nhẹ nhàng, ngôn từ trong sáng, thiết tha, giàu sức lôi cuốn.

Câu 6. Cái đẹp, cái hay, sức hấp dẫn của bài thơ Tôi yêu em (Pu-skin)?

Trả lời:

– Về nội dung: Tinh yêu là một trong những chủ đề quan trọng trong sáng tác của Pu-skin. Thơ tình yêu của Pu-skin, mà Tôi yêu em là một bài thơ tiêu biểu, thường bắt nguồn từ những cảm xúc cụ thể, chân thực với những trải nghiệm tình cảm sâu xa, do đó, đã thể hiện được những vẻ đẹp đa dạng, tinh tế của thế giới tâm hồn con người. Viết Tôi yêu em, Pu-skin chạm vào mảng đề tài đã trở thành vĩnh cửu, thế nhưng, bài thơ vẫn hay, vẫn đẹp và có sức hấp dẫn không ngờ, ấy là vì qua bài thơ, những cung bậc tình cảm phức tạp, những sắc thái cảm xúc phong phú, những rung động sâu xa và những ấn tượng khó nắm bắt của tình yêu đã được nhà thơ diễn tả một cách hết sức tinh tế, chân thực và cụ thể. Sức hấp dẫn của Tôi yêu em còn thể hiện ở sự chân thành, cao thượng và nhân ái của con người trong tình yêu đôi lứa.

– Về nghệ thuật: Đặc điểm nghệ thuật nổi bật của bài thơ Tôi yêu em là cách sử dụng từ ngữ điêu luyện, ngôn từ giản dị, trong sáng. Bài thơ giàu cảm xúc nhưng lại được thể hiện một cách lắng đọng, suy tư. Bên cạnh đó, các chi tiết cụ thể, sống động và cách nhịp câu thơ cũng được Pu-skin triệt để phát huy sức mạnh, đem lại cho thơ ông sự giàu có, quyến rũ về âm điệu và cảm xúc.

Câu 7. Phân tích hình tượng nhân vật Bê-li-cốp trong truyện ngắn Người trong bao (Sê-khốp).

Trả lời:

– Bê-li-cốp là “người trong bao” cả trong sinh hoạt và trong tư tưởng.

+ Trong sinh hoạt: Bê-li-cốp mang ô, kính râm, áo bành tô dựng cổ lên, đi ủng cả khi trời đẹp. Buồng ngủ của Bê-li-cốp chật như cái hộp, cửa đóng kín mít, khi ngủ kéo chăn trùm kín đầu,… Đồ dùng của hắn như: chiếc đồng hồ quả quýt, chiếc dao con,… tất cả đều để trong bao.

+ Trong tư tưởng: Bê-li-cốp chỉ làm theo chỉ thị, mệnh lệnh. Hắn không làm gì để phải động chạm đến ai. Hắn luôn thoả mãn, luôn hài lòng với lối sống cổ lỗ, hủ lậu, kì quái của mình.

– Những “cái bao” chụp lên mọi hành động và suy nghĩ của Bê-li-cốp cho thấy hắn là một con người nhỏ bé, yếu đuối và thảm hại. Y cứ nhởn nhơ, tự nhiên đắm chìm trong quá khứ, trong những xác tín cực kì lạc hậu, đen tối. Bê-li-cốp không hiểu mọi người xung quanh, không hiểu xã hội, cuộc sống đương thời. Đó thực là một kẻ hèn nhát, cô độc, máy móc, giáo điều, thu mình trong bao, trong vỏ ốc và cảm thấy yên tâm, sung sướng, hạnh phúc, mãn nguyện trong đó.

– Điều đáng lo sợ là lối sống và con người Bê-li-cốp đã ảnh hưởng mạnh mẽ và dai dẳng đến lối sống và tinh thần của anh chị em trong trường nơi y làm việc, trong cả thành phố nơi y sống như một thứ dịch hạch. Ngay cả khi Bê-li-cốp chết, tính cách và lối sống ấy vẫn tiếp tục tồn tại và gây ảnh hưởng nặng nề đến cuộc sống hiện tại và tương lai của cả dân thành phố, không tài nào thoát ra được. Chính bởi thế mà, thực chất hình tượng Bê-li-cốp không phải là một hiện tượng cá biệt. Toàn bộ hình ảnh con người và tính cách của y là điển hình cho một kiểu người, một hiện tượng xã hội đã và đang tồn tại trong cuộc sống của một bộ phận trí thức Nga cuối thế kỉ XIX.

(Tham khảo thêm phần phân tích nhân vật Bê-li-cốp trong bài Người tronq bao cùng trong sách này).

Giải câu 8 (Trang 116 SGK ngữ văn 11 tập 2)

Phân tích hình tượng nhân vật Giăng Van-giăng trong đoạn trích Người cầm quyền khôi phục uy quyền (Huy-gô).

Trả lời:

Tập trung phân tích những đặc điểm dưới đây.

– Trong đoạn trích, Giăng Van-giăng trước hết hiện lên qua ngòi bút miêu tả trực tiếp của nhà văn: “Ông bảo Phăng-tin bằng giọng hết sức nhẹ nhàng và điềm tĩnh”, khi thì thì thầm hạ giọng…Tất cả những hành động ấy của Giăng Van-giăng đều rất điềm đạm. Nó hoàn toàn đối lập với các hành động của Gia-ve.

– Giăng Van-giăng cũng được miêu tả gián tiếp qua những lời cầu cứu của nhân vật Phăng-tin (điều này thể hiện: hình ảnh Giăng Van-giăng trong mắt của Phăng-tin như là một anh hùng, như là một vị cứu tinh). Giăng Van-giãng còn hiện lên rất đẹp qua cảnh tượng mà bà xơ Xem-pli-xơ đã chứng kiến: “Giăng Van-giăng thì thầm bên tai Phăng-tin bà trông thấy rõ ràng một nụ cười không sao tả được hiện diện trên đôi môi nhợt nhạt và trong đôi mắt xa xăm, đầy ngỡ ngàng của chị khi đi vào cõi chết”.

– Những lời nói, hành động và ý nghĩ của Giăng Van-giăng trong đoạn cuối gợi lên những vẻ đẹp phi thường, lãng mạn. Hình ảnh đó nổi bật lên trên cái ác và cường quyền. Nó là nơi quy tụ và phát tiết của tình thương yêu.

Trong đoạn trích, trước cường quyền, Giăng Van-giăng khi nhún nhường lúc cương nghị, quyết liệt khiến cái ác phải chùn chân. Nhưng với những con người nhỏ bé, tội nghiệp, ông lại hiện lên lừng lững, dang tay chở che, đùm bọc, gieo niềm tin và tình yêu thương cho họ.

(HTTPS://BAIVIET.ORG)

DMCA.com Protection Status